Thường xuyên truy cập hocviendautu. để cập nhật tin tức, bồi bổ kiến thức, kỹ năng toàn diện về đầu tư Thường xuyên truy cập hocviendautu.edu.vn để cập nhật tin tức, bồi bổ kiến thức, kỹ năng toàn diện về đầu tư

CHUYÊN GIA HỖ TRỢ:

Facebook: Lê Nguyên

Zalo: 0765. 84 85 86

“Vòi” đã mở, chờ tiền chảy

 Kỳ vọng tín dụng sẽ được bơm vào nền kinh tế mạnh hơn trong những tháng cuối năm, doanh nghiệp có thêm nguồn vốn tập trung cho hoạt động kinh doanh, đáp ứng các đơn hàng là yếu tố nền tảng giúp thị trường chứng khoán tích cực hơn.

Nếu ví von động thái hạ lãi suất, nới room tín dụng là “vặn vòi” để nước trong bình là tiền chảy ra thì trong 8 tháng đầu năm, vòi đã từng bước được mở nhưng nước trong bình chưa nhiều nên dòng tiền chưa chảy vào nền kinh tế như kỳ vọng. Điều này xuất phát từ cả phía cung lẫn phía cầu, cụ thể doanh nghiệp chưa mạnh dạn vay vì nhu cầu tiêu thụ yếu, lãi suất ở mặt bằng cao, còn ngân hàng thận trọng để kiểm soát rủi ro. Nhưng những tháng cuối năm, áp lực tăng trưởng tín dụng của ngân hàng, cộng thêm nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng lên để đáp ứng đơn hàng đang dần hồi phục sẽ giúp dòng tiền chảy vào nền kinh tế mạnh hơn.

Dư địa bơm tiền, giảm lãi suất vẫn còn

Ông Trần Hoàng Sơn, Giám đốc Chiến lược Công ty Chứng khoán VPBankS nhận xét, áp lực tỷ giá USD đang gia tăng tại khu vực châu Á trước dữ liệu kinh tế suy yếu của Trung Quốc và chính sách duy trì nới lỏng của Nhật Bản. Mức chênh lệch lãi suất giữa VND và USD lên tới trên 500 điểm cơ bản đang kích thích hoạt động đầu cơ, tạo sức ép lên tỷ giá USD/VND trong những tuần gần đây. Bên cạnh đó, nhu cầu ngoại tệ tăng lên theo mùa vụ đã tác động không nhỏ tới tỷ giá VND/USD.

“Áp lực lên VND đã tăng, dù chưa đến mức đáng ngại nhưng cũng có thể khiến kỳ vọng về việc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hạ lãi suất điều hành gặp nhiều khó khăn hơn”, ông Sơn nhận định.

Không đồng tình với quan điểm đã hết dư địa giảm lãi suất, tăng cung tiền, TS. Lê Xuân Nghĩa – chuyên gia kinh tế phân tích, lạm phát tại Việt Nam lúc cao nhất 3,31%, chỉ tương đương 1/3 của Mỹ trong giai đoạn vừa qua, trong khi lãi suất cho vay kỳ hạn 5 năm của Việt Nam lên tới 14 – 15%/năm, ở vài ngân hàng lớn là 11 – 12%, cao gấp đôi so với lãi suất kỳ hạn 30 năm ở Mỹ (7,31%/năm).

“Năm ngoái, chúng ta 2 lần tăng lãi suất, mỗi lần 1%/năm, vì chúng ta cảm thấy rằng VND có thể mất giá so với USD, tăng lãi suất lên để kéo tỷ giá, nhưng không ngờ lãi suất vừa tăng lên thì chỉ số USD Index từ 115 điểm rơi xuống 104 điểm. Điều này chẳng khác gì tưới cây khi trời mưa, khiến 2% tăng năm ngoái là oan uổng cho doanh nghiệp, năm nay phải trả và bù đắp cho họ để hy vọng họ có thể vượt qua khó khăn. Vì thế, chúng tôi kiên trì kiến nghị phải tiếp tục giảm lãi suất”, ông Nghĩa nói thêm.

Ông Đào Hồng Dương, Giám đốc phân tích ngành và cổ phiếu, Công ty Chứng khoán VPBanks cho biết, đã hai quý liên tiếp doanh nghiệp niêm yết suy giảm lợi nhuận và dữ liệu thống kê 8 năm gần đây cho thấy, chưa bao giờ nhóm này có 3 quý suy giảm liên tiếp. Theo đó, ông Dương dự báo, quý III và quý IV năm nay, các doanh nghiệp niêm yết sẽ có lợi nhuận tăng trưởng cao hơn hai quý đầu năm. Thêm vào đó, giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng mới đạt 215.578,9 tỷ đồng, bằng 30,49% kế hoạch cả năm. Việc giải ngân mạnh đầu tư công nửa cuối năm sẽ là vốn mồi cho tăng trưởng tín dụng. Lợi nhuận của các doanh nghiệp sẽ tạo đáy trong quý III và tăng trở lại trong quý IV.

Ông Lê Xuân Nghĩa kỳ vọng đầu tư nước ngoài trên bình diện toàn cầu thì yếu ớt nhưng ở Việt Nam tăng mạnh hơn, nhờ đơn hàng đang dần phục hồi, nhà đầu tư nước ngoài cũng không chịu ảnh hưởng bởi môi trường lãi suất cao của Việt Nam. Đây sẽ là động lực khá vững, thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Bên cạnh đó, đầu tư công vẫn đang được đẩy quyết liệt và động lực quan trọng không kém là tiêu dùng nội địa.

Trước khi Vinfast niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán Mỹ, ông Nghĩa theo dõi chặt chẽ diễn biến của đợt phát hành trái phiếu ra công chúng của doanh nghiệp này để “đo” lòng tin của thị trường. Theo quan sát của ông Nghĩa, hồ sơ phát hành trái phiếu của Vinfast được cơ quan quản lý xử lý nhanh và sau khi được chấp thuận, số nhà đầu tư “đi vào” lô trái phiếu này khá mạnh mẽ, tất nhiên nhờ uy tín của VinGroup, cộng với lãi suất khá hấp dẫn, lên tới 15%/năm.

“Đây là phép thử cho thấy niềm tin của thị trường đang phục hồi, tinh thần kinh doanh của người Việt Nam không bị đánh sập hoàn toàn. Điều chúng ta hy vọng tạo ra sức bật cho thị trường chứng khoán, cho nền kinh tế trong thời gian tới”, ông Nghĩa nói.

“Rủi ro kinh tế đang giảm dần”

Ghi nhận ý kiến nhiều thành viên thị trường cho thấy, sau các lần hạ lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua, dòng tiền mới lại chảy thêm vào thị trường, góp phần đẩy thanh khoản cũng như mặt bằng giá cổ phiếu lên cao.

Từ góc nhìn của ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam, lãi suất hiện nay chưa quay về mức “rẻ” như giai đoạn đại dịch Covid-19 và tiền không còn “rủng rỉnh”, việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng cũng không dễ. Tuy vậy, vì sức cầu đang yếu, nhiều doanh nghiệp chưa triển khai các kế hoạch đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh đã tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư tài chính, góp phần tạo nên sự sôi động cho thị trường chứng khoán giai đoạn vừa qua.

“Dòng tiền lúc này có sức ép về đầu tư nhiều hơn, do gửi tiết kiệm thì lãi suất thấp. Trong khi các kênh đầu tư khác bế tắc, chỉ còn kênh cổ phiếu”, ông Minh nói.

Theo ông Minh, sức ép đầu tư đang kích thích dòng tiền đổ vào thị trường chứng khoán và dĩ nhiên, thị trường chứng khoán là câu chuyện kỳ vọng, còn bức tranh cơ bản hiện tại của doanh nghiệp ai cũng thấy rõ là còn nhiều khó khăn, thách thức.

Đánh giá về yếu tố có ảnh hưởng lớn đến diễn biến của thị trường chứng khoán toàn cầu, trong đó có Việt Nam, là động thái chính sách của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), ông Minh cho rằng, năm 2023, rủi ro này đã tạm giảm bớt, khi lãi suất USD không còn tăng ngược lên, mà “đi thoai thoải, có sườn hơn”. Giới đầu tư kỳ vọng rằng từ nay tới cuối năm, Fed chỉ còn một đợt tăng lãi suất và đây là lý do giúp thị trường chứng khoán đi lên. Bên cạnh đó, ở trong nước, rủi ro vỡ nợ trái phiếu bất động sản có xác suất thấp, giai đoạn khó khăn nhất của ngành này đã qua cũng hỗ trợ tốt cho tâm lý nhà đầu tư.

Về cơ hội, thường nhà đầu tư sẽ nhìn chênh lệch lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6 – 12 tháng so với mức E/P (thu nhập trên giá) của cổ phiếu, khoảng cách càng tăng lên thì độ hấp dẫn của cổ phiếu càng giảm, khi ở mức thấp thì độ hấp dẫn cao. Hiện lãi suất huy động vẫn còn dư địa giảm tiếp và khả năng EPS của các doanh nghiệp sẽ tăng lên vì bức tranh thị trường đang cho thấy nhiều khả năng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ hồi phục tốt hơn nửa đầu năm. Theo đó, dù nền kinh tế chưa thể hồi phục về giai đoạn trước đại dịch nhưng trước mắt, sự chênh lệch này cho thấy định giá thị trường vẫn đang hấp dẫn so với gửi tiết kiệm ngân hàng.

Về rủi ro, theo ông Minh, rủi ro kinh tế đang giảm dần. Còn với rủi ro từ thị trường, nhà đầu tư thường nhìn chỉ số dư nợ cho vay ký quỹ trên vốn hoá thị trường để đánh giá, nhưng năm nay, nhìn như vậy là chưa toàn diện. Vì vốn chủ sở hữu của các công ty chứng khoán đã tăng lên rất nhiều, tỷ lệ cho vay margin trên vốn chủ sở hữu của các công ty chứng khoán vẫn chưa quay lại đỉnh, đồng nghĩa dư địa để cung cấp thêm nguồn margin cho thị trường vẫn còn.

Theo ông Minh, giai đoạn này có đặc điểm cần lưu ý, đó là cơ cấu cho vay trong danh mục margin của các công ty chứng khoán đã an toàn hơn, ưu tiên cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán… Lượng margin cho nhóm cổ phiếu bất động sản trước đây chiếm khoảng 40 – 45% tổng dư nợ margin công ty chứng khoán thì hiện nay đã giảm phân nửa. Theo đó, danh mục cho vay hiện nay không rủi ro nhiều, nên không sợ tình trạng “tăng sốc, giảm sâu”, mất thanh khoản như năm 2022.

Chính sách vẫn giữ trạng thái hỗ trợ thị trường

Trong điều kiện nền kinh tế bình thường, tăng trưởng tín dụng nửa đầu năm nếu chưa “bung” hết thì nửa cuối năm sẽ được đẩy mạnh. Các ngân hàng cũng mong muốn đạt mục tiêu này, nhưng năm nay có vẻ hơi khó.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Maybank Investment bank nhận định, đến ngày 20/8/2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng mới đạt khoảng 4,8% so với đầu năm là do sức cầu vốn đang yếu và lãi suất còn cao. Đến tháng 10, may ra lãi suất mới hạ thêm, nhu cầu vay mới có thể cải thiện.

“Nhìn vào con số tăng trưởng tín dụng 8 tháng, trong 4 tháng cuối năm cố lắm thì cả năm mới tăng trưởng được 12 – 13%”, ông Thành nêu quan điểm.

Chính phủ vẫn đang quyết liệt đẩy nhanh đầu tư công, ngân hàng nỗ lực đẩy vốn ra nền kinh tế – những điều này thị trường chứng khoán đã phản ánh, nhịp tăng vài tháng qua khá tốt, thanh khoản cũng rất tốt. Theo ông Thành, thanh khoản vẫn còn dư địa tăng nhờ margin chưa căng hết sức, nền kinh tế hồi phục tốt thì nhà đầu tư sẽ tự tin hơn trong việc dùng đòn bẩy. Nếu thanh khoản tiếp tục giữ mức quanh 1 – 1,2 tỷ USD như hiện nay, cộng thêm sự “hưng phấn” để dùng margin, VN-Index có thể quanh ngưỡng 1.280 -1.300 điểm.

Nhận định được ông Thành đưa ra, chính sách tiền tệ vẫn sẽ giữ trạng thái như hiện nay, lãi suất điều hành có thể không giảm, nhưng lãi suất thực tế (huy động, cho vay) có thể giảm tiếp. Trong đó, lãi suất huy động có thể giảm 0,3%/năm từ mặt bằng chung, lãi suất cho vay có thể giảm hơn 1%/năm (vì tốc độ giảm đang chậm hơn so với lãi suất huy động). Đây chính là yếu tố hỗ trợ cho thanh khoản thị trường vẫn có thể giữ ở mức như hiện nay.

Theo ông Thành, dòng tiền cá nhân đang được đánh giá ở mức rất tốt, khó có dư địa đột biến. Còn dòng tiền từ nhà đầu tư nước ngoài tập trung vào những doanh nghiệp có quy mô lớn, thanh khoản tốt và gắn với câu chuyện nội tại, dựa trên cơ cấu dân số vàng của Việt Nam hơn là “câu chuyện nước ngoài” như dầu khí và lương thực.

Ông Thành đánh giá cao cơ hội với 3 ngành đang ở trạng thái giá chạy nhưng phục hồi chậm hơn các ngành khác, định giá vẫn mức thấp là ngân hàng, bất động sản và tiêu dùng. Ba ngành trên có dư địa tăng trưởng và gắn với “câu chuyện Việt Nam”. Năm 2024, nếu kinh tế Trung Quốc suy giảm nhưng thị trường Việt Nam bước vào chu kỳ phục hồi tốt nhờ các chính sách của Chính phủ phát huy hiệu quả, nhu cầu tiêu dùng hồi phục, nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển hướng phân tích.

Ông Thành chia sẻ gu đầu tư yêu thích là nhóm cổ phiếu dầu khí. Luận điểm của ông là Quy hoạch Điện 8 đã tăng dần tỷ trọng sử dụng năng lượng sạch, từng bước chuyển đổi từ nhiệt điện than sang nhiệt điện khí. Hiện các mỏ dự trữ đã hết, cần tìm kiếm và khai thác mỏ mới để phục vụ cho câu chuyện hạ tầng và chuyển đổi năng lượng. Các doanh nghiệp dầu khí top đầu như GAS, PVD, PVS sẽ hưởng lợi. Trong đó, PVS là doanh nghiệp duy nhất triển khai mảng điện gió nhờ khả năng thi công ngoài khơi cột điện gió. PVS là cổ phiếu vừa có thể “ăn theo” chu kỳ tăng trưởng ngành – rất quan trọng, cộng với vừa có khả năng chuyển đổi ESG – đúng với khẩu vị của nhà đầu tư nước ngoài.

PGS. TS Trần Hùng Sơn, Giảng viên Khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM

Tôi cho rằng cầu tín dụng trong những tháng còn lại của năm nay sẽ không cải thiện nhiều so với nửa đầu năm nay, kể cả trong mùa kinh doanh cuối năm bởi hai khía cạnh chính:

Một là, doanh nghiệp tốt không vay, vì vay vốn không biết làm gì khi thị trường thu hẹp, đơn hàng không có.

Hai là, với doanh nghiệp yếu, ngân hàng không dám cho vay, vì rủi ro nợ xấu gia tăng và thực tế nợ xấu ngành ngân hàng đã tăng trong nửa đầu năm 2023.

Cho dù các ngân hàng được tái cơ cấu, giãn, hoãn nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN, nhưng với tình hình thị trường khó khăn hiện nay, không ít khách hàng, trong đó có doanh nghiệp giảm và thậm chí mất khả năng trả nợ. Do đó, dù tín dụng tăng chậm, nhưng ngân hàng không thể hạ chuẩn cho vay.

Bà Yun Liu, Chuyên gia kinh tế phụ trách thị trường ASEAN, Khối Nghiên cứu kinh tế toàn cầu, Ngân hàng HSBC

Tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam đang chậm lại, chủ yếu đến từ phía cầu, khi mà nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng đơn hàng xuất khẩu giảm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cắt giảm lãi suất 1,5%/năm trong quý II/2023 để hỗ trợ tăng trưởng thông qua kênh thanh khoản.

Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam đã giảm kể từ tháng 11/2022 và vẫn chưa chạm đáy. Để giải quyết tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước đã nhanh chóng cắt giảm lãi suất. Động thái này ngay lập tức khiến lãi suất thị trường tiền tệ thấp đi, nhưng chúng ta cũng cần theo dõi chặt chẽ khi chu kỳ thương mại đổi chiều.

TS. Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên Trường đại học Kinh tế TP.HCM

Hiện nhiều doanh nghiệp hết tài sản đảm bảo, không có phương án sản xuất – kinh doanh khả thi, khó chứng minh được dòng tiền, vướng nợ xấu nên không đủ điều kiện để vay vốn. Do vậy, bây giờ lãi suất có giảm thêm, doanh nghiệp cũng không tiếp cận được vốn vay.

Thực tế, lãi suất hiện nay tương đối thấp, trở về mức trước đại dịch. Tín dụng năm nay khả năng chỉ tăng khoảng 13% so với mục tiêu đưa ra là 14 -15%.

Từ nay đến cuối năm 2023, mặt bằng lãi suất huy động giữ mức như hiện nay và giảm thêm sẽ tác động tích cực lên chứng khoán, giúp thị trường hồi phục. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xem động thái của các nhà đầu tư nước ngoài. Dòng tiền đầu cơ chứng khoán mang tính chất ngắn hạn nên khả năng thị trường chứng khoán cũng sẽ trồi sụt, chứ không thể hoàn toàn tăng trưởng bền vững.

Thứ hai là định giá của thị trường chứng khoán Việt Nam được cho là thấp hơn khu vực, nhưng thực ra vẫn cao. Ví dụ, P/E của Trung Quốc đâu đó 8, 9 lần và P/E của một số nước cũng thấp.

Theo tinnhanhchungkhoan.vn


CÔNG TY THÀNH VIÊN

© HOCVIENDAUTU.EDU.VN ALL RIGHTS RESERVED
GIAO DỊCH FOREX
GIAO DỊCH CRYPTO